Nhà ở của người Âu: Tính đến ngày 01/01/1897, số nhà ở của người Âu tại Hà Nội là 384. Ngay sau đó, xuất hiện thêm 167 ngôi nhà nữa:
Ngoài ra, còn có 18 ngôi nhà mới đang trong giai đoạn thi công. Do vậy, vào thời điểm đó số nhà ở của người Âu đã lên tới 569.
Nhà ở của người An Nam: Đầu năm 1897, tại Hà Nội có khoảng 2954 ngôi nhà gạch của người bản xứ và người Hoa sinh sống tại Thành phố.
Năm 1897, có thêm 465 ngôi nhà được xây mới.
Như vậy, tổng số nhà xây của người An Nam là 3419.
Đến ngày 01/01/1897, chỉ tính riêng trong khu vực Thành phố đã có 2852 ngôi nhà tranh của người An Nam.
Năm 1897 có 41 ngôi nhà mới tính cả các nhà được dựng lại và làm mới.
Ngoài ra, trong khu phố của người bản xứ hình thành tại phía Nam Thành phố, 154 lô đất được phân chia giữa những người An Nam và trên đó họ xin dựng những căn nhà mới.
Trên đại lộ Henri Rivière (nay là phố Ngô Quyền), đối diện Phủ Thống sứ là một khách sạn lớn (khách sạn Métropole) có mặt trước dài trên 80m lúc đó đang trong giai đoạn hoàn tất và khánh thành vào vài tháng sau đó.
Các công trình dân sự:
Trong 4 năm này, rất nhiều cơ quan thuộc địa và địa phương đã cho xây dựng tại Hà Nội:
1 - Văn phòng Phủ Thống sứ Bắc Kỳ;
2 - Văn phòng của Sở Công chính;
3 - Dinh thự cho Chánh Sở Bưu điện và Điện báo và các văn phòng;
4 - Dinh thự cho Kinh lược khi đó đang được Phòng Thương mại và Nông nghiệp Bắc Kỳ sử dụng;
5 - Dinh thự cho Luật sư trưởng, Chánh Sở Tư pháp Bắc Kỳ;
6 - Nhà ở cho Chánh Sở Nông nghiệp;
7 - Doanh trại đội lính khố đỏ trước đây được làm bằng nhà tranh đến nay được xây dựng lại hoàn toàn bằng gạch;
8 - Một nhà ga đường sắt trung ương được xây dựng ở đầu đại lộ Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Cùng với các khu nhà phụ thuộc, nhà ga này sử dụng tới 1200m đất. Những chiếc cầu cạn phục vụ xe lửa qua lại thành phố đã được hoàn thành một phần tương đối lớn;
9 –Thành phố cho dựng nơi họp chợ thứ hai với tổng trị giá 11.000 phơ răng trên đường Huế (nay là phố Duy Tân) ;
10 - Thành phố đã tiến hành xây dựng một nhóm các trường học gồm: trường Nữ sinh, trường Nam sinh, thư viện, phòng hội thảo với khoản kinh phí 150.000 phơ răng.
Các công trình quân sự:
Từ ngày 01/01/1897 cho đến thời điểm hiện tại (năm 1901), các công trình quân sự đã gia tăng không ngừng:
1 - Một trại cấp ngựa cho 170 kỵ binh với 200 con ngựa và một bệnh xá dành cho quân đội đồn trú gồm 2 toà nhà lớn và các nhà phụ thuộc.
2 - Một trại pháo binh mới dành cho 3 đội pháo quan trọng và cho Ban Tham mưu Trung đoàn pháo binh Đông Dương.
3 - Một số khu nhà phụ dành cho sư đoàn thuỷ quân lục chiến gồm: xưởng vũ khí, các phòng kỷ luật...
4 - Một khu chòi dành cho kế toán viên.
5 - Một trạm xá thú y
6 - Một toà nhà chuyên in ảnh chìm phục vụ Sở Địa dư.
7 – Doanh trại cho 600 lính bản xứ Bắc Kỳ.
Dịch vụ cung cấp nước
Một nhà máy và hệ thống đường dẫn cung cấp nước sạch trong Thành phố đã được xây dựng năm 1895 – 1896.
Sau khi các công trình thu dẫn nước lần đầu tiên không được thực hiện, vào các năm 1897-1899, người ta đã tiến hành đào nhiều giếng có bán kính lớn có thể cung cấp 5000m3 nước mỗi ngày. Dịch vụ này đi vào hoạt động từ ngày 24/02/1900 và nhìn chung đã thoả mãn các nhu cầu đặt ra.
Hệ thống đường dẫn nước ban đầu dài 21km90. Từ khi những chiếc giếng mới được đưa vào sử dụng, hệ thống đường dẫn này được mở rộng thêm 4km770 để đáp ứng nhu cầu của người dân.
Do sự phát triển của Thành phố và do nhu cầu của các cơ quan quân sự, hệ thống đường dẫn nước này còn được dự kiến mở rộng nhiều hơn. Vào thời điểm đó, 85 nhà máy và 53 ống nhánh nước được thuê thường kỳ thực hiện việc phân phối nước trong thành phố.
HOẠT ĐỘNG CHIẾU SÁNG
Điện. – Tính đến ngày 01/01/1897, thành phố Hà Nội được thắp sáng bằng 523 chiếc đèn nóng sáng và 28 đèn hồ quang 8 ampe.
Đến năm 1901, số lượng đèn nóng sáng luôn luôn là 523 chiếc nhưng số bóng đèn hồ quang đã lên tới 55 chủ yếu để chiếu sáng các bến bãi.
Mạng lưới điện đã được mở rộng, nhiều đèn nóng sáng mới được lắp đặt trên một số tuyến đường. Năm 1897, công suất cơ học của nhà máy điện là 300 mã lực được nâng lên thành 850 mã lực để đáp ứng nhu cầu của những người đặt mua và của Thành phố. Phần lớn thiết bị của nhà máy cũng đã được thay mới.
Đèn dầu
Tính đến ngày 01/01/1897, 584 đèn dầu được sử dụng để chiếu sáng khu vực ngoại thành và một phần khu phố bản xứ.
Đến năm 1901, tổng số đèn dầu là 691 chiếc và thời gian sau đó sẽ tăng hơn 100 chiếc nữa để chiếu sáng đường sá.
HỆ THỐNG ĐƯỜNG BỘ
Đầu năm 1897, những con đường của Hà Nội có khả năng giao thông dài 45.508m. Kể từ giai đoạn này, 21.565m chiều dài đã được mở rộng thêm để phục vụ giao thông. Như vậy, hệ thống đường giao thông được bảo trì và trong tình trạng tốt được mở rộng lên đến 67.072m. Độ dài những con đường được dự kiến thi công trong phạm vi Thành phố là 10.193m.
Ngoài những con số này, còn có thêm 47km dài các con đường thuộc khu vực ngoại ô.
Phố Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền)
Vỉa hè – Trong phần của người Âu tại Hà Nội, từ 1898 - 1901, người ta tiếp tục cho xây những vỉa hè lát gạch vuông có vân cùng với bờ vỉa hè được làm bằng đá đẽo. Những vỉa hè đã thi công có chiều dài khoảng 3km. Hội đồng Thành phố cũng đã biểu quyết việc xây dựng một số vỉa hè mới cùng loại trên các tuyến phố trung tâm.
Cống - Đến ngày 01/01/1897, tại Hà Nội chỉ có khoảng 3600m cống trong đó, những chiếc cống có mặt cắt nhỏ chiếm gần ¼ và hầu như việc lau chùi chúng là không thể thực hiện được.
Trong vòng 4 năm từ 1897 đến 1901, 11.059 chiếc cống với các mặt cắt khác nhau đã được xây dựng. Việc lau chùi những chiếc cống này cũng dễ dàng hơn nhờ vào hệ thống giội nước khá hoàn hảo. Ngoài ra, vào năm 1899, chính quyền quân sự đã cho xây dựng một chiếc cống dài 500m nối liền với hệ thống cống của thành phố. Như vậy, tính đến năm 1901, tổng chiều dài các cống là trên 15km.
Các công trình đang thi công và công trình được dự kiến
Ngày 31/12/1900, Tổng Nha Công chính Đông Dương cho bỏ thầu công trình xây dựng dinh thự cho quan Toàn quyền tại Hà Nội và một Toà án. Hai công trình quan trọng này đã được thi công và các nhà thầu dự kiến hoàn thành vào 2 năm sau đó.
Ngày 7/01/1901, Chính quyền tổ chức đấu thầu công trình xây dựng một khu trưng bày sản phẩm phục vụ cuộc Triển lãm dự kiến tổ chức tại Hà Nội vào tháng 11/1902.
Một nhà hát có sức chứa 700 chỗ ngồi với kinh phí lên tới 800.000 phơ răng khi đó cũng sắp được Thành phố đem ra đấu thầu.
Cuối cùng, Thành phố dự kiến trích từ ngân sách thành phố khoản tiền 55.000 phơ răng để xây dựng nơi họp chợ mới tại khu Grand Marché (Chợ Lớn) Hà Nội, phố Chợ Gạo.
Thành phố tiếp tục hoàn thiện các công trình vệ sinh và dự kiến đến năm 1903, có thể xây thêm 10km cống mới.
XE ĐIỆN
Các toà nhà của Công ty Xe điện bắt đầu được xây dựng năm 1900 và đã khánh thành. Toàn bộ hệ thống xe điện được thi công gồm 3 tuyến tập trung tại trung tâm Thành phố, trên quảng trường Négrier (quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục) ở cuối hồ Hoàn Kiếm về phía Bắc. Ba tuyến xe điện này được đưa vào khai thác vào giữa năm 1901. Phương pháp kéo được sử dụng là hệ thống cần vẹt cùng với những chiếc xe ô tô có moóc kéo. Hệ thống này được tiếp liệu bằng các dòng điện một chiều 500 vôn.
NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ
Sự gia tăng ngân sách của Thành phố được thể hiện như sau:
Tài khoá 1897..........................................................252.285$00
1898..........................................................338.860$00
1899..........................................................379.195$00
1900..........................................................579.639$00
1901..........................................................686.809$00
SỰ GIA TĂNG THUẾ
Thuế môn bài. – Năm 1897, thuế môn bài đạt 51.590$62. Năm 1898, con số này không thay đổi. Năm 1899, con số này lên tới 53.972$60 và năm 1900 là 59.336$35.
Thuế thân. – Các khoản thuế thân thu từ những Á kiều sống tại thành phố Hà Nội liên tục gia tăng cho đến năm 1900. Tuy nhiên, năm 1900 lại là năm có mức thu thấp hơn năm trước khoảng 350$.
Năm 1897.................................................................13.635$55
Năm 1898.................................................................16.264$77
Năm 1899.................................................................17.008$07
Năm 1900.................................................................16.641$69
Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do khoảng 40 người Hoa đã rời bỏ Hà Nội vào thời điểm diễn ra nhiều sự kiện tại đất nước Trung Hoa.
Khoản thuế thân mà người bản xứ phải nộp cũng tăng lên hàng năm:
Năm 1897.................................................................7972$00
Năm 1898.................................................................8794$80
Năm 1899.................................................................8956$90
Năm 1900.................................................................9106$30
Cuối cùng, doanh thu đến từ các chợ, lò mổ và xe kéo tay tăng một cách ổn định và rất gây ấn tượng:
Tài khoá
|
Chợ
|
Lò mổ
|
Xe kéo tay
|
1897
|
45.095$94
|
16.064$72
|
26.530$00
|
1898
|
46.845$95
|
15.997$99
|
32.165$00
|
1899
|
58.300$04
|
17.857$18
|
32.775$00
|
1900
|
63.139$95
|
19.152$64
|
40.450$00
|
Cuối cùng, doanh thu đến từ các chợ, lò mổ và xe kéo tay tăng một cách ổn định và rất gây ấn tượng:
Tài khoá
Chợ
Lò mổ
Xe kéo tay
1897
45.095$94
16.064$72
26.530$00
1898
46.845$95
15.997$99
32.165$00
1899
58.300$04
17.857$18
32.775$00
1900
63.139$95
19.152$64
40.450$00
Ngoài việc khấu trừ từ khoản vay của Thành phố và số tiền trợ cấp hàng năm của Chính quyền Bảo hộ, các khoản thu riêng của Thành phố là:
Kết quả nghiên cứu chứng thư hộ tịch cho thấy:
Năm
|
Sinh
|
Kết hôn
|
Tử
|
1897
|
48
|
8
|
77
|
1898
|
61
|
5
|
57
|
1899
|
58
|
10
|
65
|
1900
|
73
|
15
|
73
|
Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận là khi đó Thành phố Hà Nội có một bệnh viện lớn và lượng bệnh nhân dân sự và quân sự đến đây khá đông. Từ đó, tỷ lệ tử vong không còn là gánh nặng đối với Thành phố nữa. Mặc dù dân số liên tục tăng nhưng tình trạng sức khoẻ của họ vẫn được cải thiện đáng kể nhờ có các công trình vệ sinh lớn.
Tỷ lệ sinh cũng không ngừng gia tăng.
Cuối cùng, vào năm 1897, dân số châu Âu là 950 người và đến năm 1901 là 1351 người chưa kể lực lượng binh lính.
Năm 1897, dân số Trung Hoa là 1697 và đạt con số 1900 vào năm 1901.
Tuy không thể thống kê một cách chính xác nhưng theo một số thông tin, dân số An Nam được ước tính xấp xỉ 80.000 người.
Ngoài ra, Thành phố còn cho lập một khu phố bản xứ tương đối lớn gần đường Huế để tiếp nhận những người An Nam mà do các công trình xây dựng và sự phát triển của thành phố kiểu Âu đã buộc họ phải rời khỏi trung tâm Thành phố. Cũng vì một số lợi ích mà rất nhiều người bản xứ ở khu vực ngoại thành cũng bắt đầu đến sinh sống tại đây.
Phố cổ Hà Nội nhìn từ phía nhà thờ Lớn.
Ngoài một số nét nổi bật như chúng ta thấy qua các con số thống kê, sự phát triển của thành phố Hà Nội còn được khẳng định bằng sự đi lên đáng kinh ngạc. Phần lớn các công trình hỗ trợ sự phát triển kinh tế và làm đẹp thành phố đã được hoàn thành trong giai đoạn này. Việc mở rộng một số tuyến đường sắt cũng thúc đẩy mạnh mẽ cường độ của cuộc sống thương mại và công nghiệp. Như vậy, giai đoạn 01/1897 - 01/1901 cho chúng ta thấy Thành phố Hà Nội đã có bước phát triển thần kỳ và đầy sức thuyết phục trên nhiều lĩnh vực./.
Tài liệu tham khảo
TC 14 - Revue indochinoise 1901
Hoàng Hằng - Trung tâm Lưu trữ quốc gia I