Chí lớn của vua Lý Thái Tổ đã được triều thần đồng lòng hưởng ứng: Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho nhân dân được giàu có nhiều người, việc lợi như thế ai không dám theo. Tháng 7 năm Canh Tuất nhà Lý bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Nghĩa là từ việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương
Nguyên nhân dời đô:
1. Do kinh đô cũ không còn thích hợp:
Người mở đầu nền tự chủ phong kiến Việt Nam vào năm 939 là Ngô Quyền (吳權; 898–944, quê ở Đường Lâm, Ba Vì) đóng đô ở Cổ Loa, đặt các chức quan văn võ, quy định nghi lễ trong triều mang tính tập quyền.
Trong bối cảnh Loạn 12 sứ quân (966-968), Đinh Bộ Lĩnh tập hợp dân chúng vùng Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác. Nhờ sự giúp đỡ và giao quyền của sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu (Vũ Thư, Thái Bình), chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác. Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tự chủ Trung ương tập quyền ở Việt Nam. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968 - 1010), gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh (968-990), nhà Tiền Lê (980-1009) và nhà Lý (1009-1010) với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm.
Hoa Lư là một nơi núi non hiểm trở làm nơi đóng đô chỉ với dụng ý phòng thủ, xây dựng chính quyền còn non trẻ nhưng hẹp, bao bọc bởi núi non, khó phát triển mở mang khi đất nước đã ổn định phát triển. Hơn nữa trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã chỉ rõ: “… hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp…”. Một điều nữa là phong thuỷ nơi đây “có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài”.
Và, theo tôi bác caytrevietnam đã đúng khi cho rằng: “Ngoài các lý do dời đô được viết trong chiếu thì có lẽ 1 lý do khác là muốn tránh xa đất Hoa Lư nơi còn nhiều tình cảm của dân chúng với nhà Lê”.
2. Vùng đất Đại La:
2.1. Có lịch sử lâu đời, đã được xây đắp thành thành luỹ:
Hà Nội có cội nguồn từ làng Long Đỗ ven sông Tô với trung tâm là núi Nùng. Đến năm 544, Lý Bí (503-548) nổi lên đánh đuổi quan lại nhà Lương, xưng Hoàng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, cho xây dựng kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Đây là tòa thành đầu tiên dựng ở đất nội thành Hà Nội được ghi chép trong sử sách. Sau đó nhiều thành lũy nối nhau được xây dựng trên đất này.
Quy mô các tòa thành ngày càng được mở rộng, có nghĩa là dãi đất này ngày càng phát triển, quan trọng hơn lên, bên cạnh thành hẳn đã có phố phường, chợ búa nhộn nhịp. Thời kỳ nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Từ thế kỷ 10,Sang đầu thế kỷ XI, thành Đại La trở nên một chốn đô hội có sức hút lớn, lớn đến mức hút luôn cả kinh đô về phía mình.
2.2. Có phong thuỷ đắc địa:
- Lý Thái Tổ khẳng định: “được thế rồng chầu hổ phục”
- Đại La giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam xa xa có núi Tản Viên là tổ sơn.
- Có người đã phân tích: “Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước.
Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy "cát" đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí "hung".
2.3. Địa hình bằng phẳng thoáng đãng, thông thương:
Lý Thái Tổ viết “….thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.”
Vừa có đất đai bằng phẳng, cao mà thoáng, lại tiện hướng nhìn sông Hồng, sông Tô; dựa núi Tản Viên, có thể phát triển mọi mặt kinh tế, chính trị đến muôn đời sau.
Hơn nữa, theo tôi, Đại La gần quê hương của Lý Công Uẩn nên có thể dựa vào tình cảm chăng?
Tóm lại Nguyễn Lương Bích ngay từ 1960 đã rất có lý khi đưa ra nhận định trong cuốn Lịch sử thủ đô Hà Nội : “Lý Thái Tổ đã chọn miền Hà Nội, vì miền Hà Nội lúc ấy, ngoài những điều kiện thiên nhiên thuận lợi sẵn có, còn có những điều kiện kinh tế xã hội rất tốt để làm nền tảng cho việc xây dựng kinh thành mới được bền vững lâu dài. Những điều kiện kinh tế xã hội của miền Hà Nội thời ấy đã được Lý Thái Tổ nhận thấy và nói rõ trong bài Chiếu thiên đô”.
3. Quần thần nhất trí:
Khi được vua hỏi về việc dời đô ra Đại La, Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.
4. Ý nghĩa việc dời đô:
Ngày 2/11 năm Kỷ Dậu (tức 21/11/1009), tại Kinh đô Hoa Lư, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra Vương triều Lý (1009 – 1225). Năm sau, vào mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (tức khoảng 13/8 đến 10/9 năm 1010), Lý Thái Tổ tổ chức việc dời đô từ Hoa Lư ra ở thành Đại La. Khi thuyền đến nơi, đang tạm đỗ dưới thành thì bỗng có rồng vàng hiện lên thuyền ngự, nhân đó Lý Thái Tổ quyết định đổi tên thành là Thăng Long, tức rồng bay lên. Cải cố đô Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ. Theo PGS-TS Vũ Văn Quân, nhà Lý ra đời và dời đô ra Thăng Long đã chính thức khép lại một thế kỷ với dồn dập những sự kiện quân sự, với sự thay đổi liên tục các dòng họ, phản ánh một bước tiến lớn về tư duy quản lý đất nước, về trách nhiệm trước vận hội đi lên của đất nước trên con đường phục hưng và phát triển.
Từ đó đến nay, trừ 143 năm triều Nguyễn (1802-1945) di đô vào Huế (khi đó chữ Long trong Thăng Long được viết là 隆 với nghĩa thịnh vượng chứ không viết bằng chữ 龍 nghĩa là rồng), non sông đất nước ta dù phải trải qua bao vận hội và thử thách có lúc thăng trầm, Thăng Long vẫn là kinh đô. Đó là ở triều Trần (1225-1400), nhà Lê sơ (1428 - 1527), nhà Mạc (1527-1533), nhà Lê Trung Hưng (1533-1789) với tên gọi Đông Đô. Từ 8/1945 là thủ đô của Việt Nam dân chủ cộng hoà và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976) với tên gọi: Thủ đô Hà Nội. Tất nhiên quy mô mọi mặt của Hà Nội ngày nay vượt xa thành Đại La cách đây 1000 năm!
Ấy mà theo một số "hãng thông tấn vỉa hè" thì đầu những năm 70 thế kỷ trước từng có ý định thiên đô sang phía Bắc sông Hồng đấy.
menthuong:
Bàn về vị trí đắc địa của Đại La, có bài viết của Nhi Anh trên báo Nhân dân cuối tuần rất sâu.
Chú giải thêm về thế đất "Rồng cuộn hổ ngồi"
-Nhi Anh-
Văn Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) của vị vua khai sáng triều Lý, cũng là khai mở Kỷ nguyên Ðại Việt - Thái Tổ Lý Công Uẩn, cho thấy bậc quân vương - trí thức lớn uyên thâm cả Thiền học lẫn Nho học cùng kho tàng kiến thức phương Ðông đương thời, đã thấy rõ, đã thấu tỏ về mọi phương diện, rằng không đâu bằng đất Ðại La hội đủ các yếu tố của một "kinh sư của muôn đời".
Con mắt nhà chính trị ở Người thấy rõ ưu thắng của Ðại La về địa - chính trị, địa - kinh tế: "ở giữa nam bắc đông tây", "đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh", "chỗ hội họp của bốn phương". Và sự thấu tỏ cái thế đất nhiều ưu việt hơn so với một nhược điểm về địa - quân sự trong việc giữ thành: "có thế rồng (tức là sông-long-long mạch-Thanh Long...) cuộn, hổ (núi-Bạch Hổ...) ngồi", "hình thế núi sông sau trước", "chỗ cao mà sáng sủa" (đất kết, khí ngưng tụ), thì rõ ràng là từ con mắt của người am tường phong thủy học phương Ðông.
Những người hiểu biết về phong thủy học từ trước đến nay tham khảo tài liệu của ông cha cùng lời truyền tụng dân gian, suy ngẫm và đã bàn luận ít nhiều trên sách, báo. Xin lược thuật giúp bạn đọc tham khảo hẳn cũng là có ích.
Các đời Ðinh, Tiền Lê vun đắp nền độc lập non trẻ sau nghìn năm bị đô hộ, thế nước không thể không thiên về phòng thủ, nên lập đô ở thung lũng Hoa Lư với thế núi bốn bề vây bọc như thành cao, sông suối ngoằn ngoèo như hào sâu, là dễ hiểu. Theo phong thủy, thế đất ấy hãm nhiều hơn phát, thế đất "cường", khí tiêu tán bên trên, ngựng tụ bên dưới, thiên huyệt kết ở chỗ trũng, nên được nghiệp nhưng phúc trạch không dài - như Lý Thái Tổ viết trong Chiếu dời đô: "thế đại không dài, vận số ngắn ngủi".
Còn Ðại La thì sao? Nhìn đại cục, thì một mạch đất cực lớn (đại can long) khởi từ núi Côn Lôn xứ bắc chạy đến nước ta đã chia làm ba chi lớn, trong đó có tới 27 "ngôi đất kết" (khí ngưng tụ), có thể phát tới thiên tử, còn lại là hàng nghìn ngôi đất lớn nhỏ kết phát nhân kiệt.
Có một diễn ca nói về thế đất Ðại La thời đất ấy còn thuộc Giao Châu (vì thế hai chữ "thăng long" trong diễn ca là để chỉ "khí thăng lên từ long mạch") - miền đất mà sau đó, Lý Thái Tổ định đô, đổi gọi Thăng Long (có thể gồm cả hai nghĩa: khí Thăng từ Long mạch, và Rồng Bay dựa theo truyền thuyết bóng Rồng vàng bay lên đón ngự thuyền Lý Thái Tổ):
"Thăng long đệ nhất đại huyệt mạch, đế vương quý địa (Huyệt mạch thăng khí từ long mạch lớn nhất, đất quý phát đế vương).
Giao Châu hữu chi địa, thăng long thành tối hùng (Giao Châu có một ngôi đất như thế, khí thăng từ long mạch hùng mạnh nhất)
Tam hồng dẫn hậu mạch (Ba sông lớn dẫn hậu mạch đó là sông Thao, sông Lô, sông Ðà)
Song ngư trĩ tiền phương (Hai con cá dẫn phía trước-hẳn là hai doi đất nổi trên sông Hồng)
Tản Lĩnh trấn Kiền vị (Núi Tản Lĩnh, tức Ba Vì, trấn tại phương Càn - tây bắc)
Ðảo Sơn đương Cấn cung (Núi Tam Ðảo giữ phương Cấn - đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch Hổ (Nghìn ngọn núi quay về Bạch Hổ)
Vạn thủy nhiễu Thanh Long (Muôn dòng nước từ ba con sông Thao, Lô, Gâm hội nhau ở Bạch Hạc rồi chảy về bao quanh Thanh Long)
Ngoại thế cực trường viễn (Thế bên ngoài cực rộng dài)
Nội thế tối sung dong (Thế bên trong rất mạnh, đầy)
Tô Giang chiếu hậu hữu (Sông Tô Lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải)
Nùng Sơn cư chính cung (núi Nùng đóng chính cung)
Chúng sơn giai củng hướng (Mọi núi non đều hướng đến)
Vạn thủy tận triều tông (Nơi tận cùng tụ hợp mọi dòng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về)
Vị cư cửu trùng nội (Là nơi ở của đế vương)
Ức niên bảo tộ long (Bền vững tới chục vạn năm)"
Quả là thế vượng địa trường cửu, xứng đáng là "Nơi thượng đô của kinh sư muôn đời" vậy.
Ðại La - Thăng Long vậy là nằm bên "đại can long" Nhĩ Hà - sông Hồng, khởi từ nguồn xa xứ bắc, vòng vèo uốn khúc để khi bao bọc Ðại La ở mạn bắc, mạn đông thì đã thải bớt (chứ chưa hết) khí hung, rồi xuôi nam chảy về biển cả. Ðại can long Nhĩ Hà tỏa các "chi long" (cành), "cước long" (nhánh) như Tô Lịch, Kim Ngưu (mà từ thời người Pháp lập phố xá đến giờ nhiều đoạn đã bị lấp mất tăm), cùng nhiều lạch nước nối thông chằng chịt thời ấy tạo nên thế phong thủy tuyệt vời. Thế đất này là "dương lai" (khí dương phủ xuống), "âm phụ" (khí âm ngẩng lên đón), và "nhược" (mềm), khí ngưng kết bên trên, tiêu tán bên dưới. Thế nên địa huyệt "kết" (tụ khí) ở nơi cao nhất - núi Nùng (nay vẫn đang được dò tìm, có thể suy đoán ở vị trí chính tâm Hoàng Thành chăng?).
Với vượng khí Thăng Long, nhà Lý làm chủ xã tắc 216 năm, trải 9 triều (vị) vua; nhà Trần 175 năm, với 12 triều (vị) vua; nhà Lê được 11 triều (vị) vua (1428-1527) thì bị gián đoạn bởi nhà Mạc (1527-1592), nếu cộng cả thời Lê trung hưng, sau đó là Lê mạt (chỉ có hư vị, thực quyền trong tay các chúa Trịnh) thì được 356 năm, 26 triều (vị) vua.
Ðầu thời Nguyễn, tên đất Thăng Long chưa đổi hẳn, nhưng chữ "Long" nghĩa là "Rồng" thay bằng chữ "Long" nghĩa là "thịnh", và những gì còn sót lại của Hoàng Thành sau thời quân nước ngoài phá phách cùng cơn binh lửa Hoàng Ðế Quang Trung đuổi chúng về nước, lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển hầu hết vào Phú Xuân để xây cất tân đô Huế. Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ, xây thành mới gọi là Trấn Bắc thành, quy mô nhỏ hơn nhiều và theo kiểu vô-băng (vauban) của Pháp. Các nhà sử học đối chiếu thành Nguyễn với Hoàng Thành ngày trước, thấy rằng, thế phong thủy của thành Nguyễn đã biến dịch khi trục chính đạo của nó lệch đi 3 độ về hướng tây bắc so với Hoàng Thành.
Phong thủy học cũng lưu ý rằng, thế đất đế đô bao giờ cũng kén bậc quân vương có Ðức Sáng, "trên theo lẽ trời" (tức là am hiểu, để biến cải thích ứng chính sách trị quốc, cả luật biến thiên của trời đất lẫn lẽ thịnh suy của thời cuộc), "dưới thuận lòng người" (tức là yêu nước, thương dân, biết giữ gìn bờ cõi, chăm sóc sức dân nên được dân theo). Diễn đạt rõ hơn, thì có thể nói trong lẽ thịnh suy xoay vần muôn thuở, phong thủy gồm cả ba ngôi tam tài "Thiên-Ðịa-Nhân" trong tương tác, biến thiên theo quy luật ("lẽ trời") nằm ngoài ý muốn con người. Có "Thiên thời"- thời vận, thời cơ; có "Ðịa lợi"-lợi thế địa lý, sông núi, tài nguyên; nhưng phải có nhiều "Nhân kiệt" hết lòng vì dân vì nước mà chèo lái cơ đồ, và "Nhân hòa"- thuận lòng dân cả nước, thì nghiệp lớn mới thành, cơ đồ mới vững, hưng vượng mới bền lâu.
Lại nữa, các triều đại xưa dù thời thịnh hay thời suy đều kiêng kị không dám phạm vào phong thủy, không dám làm hư tổn long mạch Thăng Long, tránh làm phương hại hay biến dị núi non, làm úng ngập phố xá, hay làm ô uế, nghẽn tắc các dòng sông lạch muôn đời chuyển vận khí từ thượng nguồn về làm vượng khí đất này. Thắng địa Thăng Long - Hà Nội, với linh khí và tinh khí của núi sông và từ lịch sử oai hùng nghìn năm tàng ẩn, biết gìn giữ và bồi đắp, thì có thể muôn đời hưng vượng.
Nguồn tin: Theo Báo Nhân Dân
[/i]
Đây là thế đất của kinh đô dưới góc nhìn người hiểu biết sâu về thuật Phong thuỷ.
Riêng tôi, tôi thấy Hà Nội có vị trí đẹp, là trung tâm vùng Bắc bộ (tương đương cương vực thời nhà Lý). Không hiểu Hà Nội mở rông như ngày nay có cái thế đó nữa không chưa thấy ai phân tích?
Nhưng Phong Thuỷ tốt giúp giảm được tai hoạ khi vào vận xấu, giúp gia tăng sự thành công và may mắn khi vào vận tốt. Sự vận dụng Phong Thuỷ là phải biết kết hợp giữa số mệnh của chủ nhân, góp phần cải biến vận mệnh chứ không tự tạo ra vận mệnh của lãnh đạo và quốc gia...Nhưng lại có câu “Nhất phận, nhì duyên, tam phong thổ, tứ tích âm công, ngũ độc thư” và điều cần là “Tiên tích đức hậu tầm long”. Do vậy, muốn thành công viên mãn một sự việc nào, cần đủ ba điều thiết yếu: thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Lịch sử đã minh chứng điều đó.
menthuong:
Thiên đô thì thuận đạo trời, hợp lòng người và cũng đúng nhu cầu mở mang phát triển, phù hợp khả năng triều đình. Nhưng dời đô ra sao và đưa cả Hoàng triều đi từ Hoa Lư ra Đại La cách đây 1000 năm phải đâu chuyện dễ. Bài viết sau đây trên Báo Bắc Ninh chắc cũng chỉ là một trong những cách lý giải:
Nhà Lý dời đô bằng đường nào ?
Ngày Tân Hợi tháng 10 năm Kỉ Dậu vua Lê Ngọa Triều qua đời trong tẩm điện ở kinh đô Hoa Lư. Ngày Quý Sửu quần thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế.
Tháng 2 năm sau (Canh Tuất) nhà vua về thăm châu Cổ Pháp. Chuyến đi này nhà vua còn có chủ ý tìm đất đặt đô. Vùng đất phía Bắc Sông Hồng thời ấy đã từng có các cố đô Cổ Loa, Luy Lâu, Long Biên. Thành Cổ Loa vẫn còn dấu vết. Thành Luy Lâu mới bỏ từ cuối thời Đường nên còn vững dễ khôi phục. Nhưng nhà vua đã chọn thành Đại La do Cao Vương khởi xây thời Đường để dễ bề phòng thủ khi nước lớn phương Bắc sang xâm chiếm.
Trở về kinh đô Hoa Lư nhà vua nghị bàn việc dời đô.
…
Chí lớn của vua Lý Thái Tổ đã được triều thần đồng lòng hưởng ứng: Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho nhân dân được giàu có nhiều người, việc lợi như thế ai không dám theo.
Tháng 7 năm Canh Tuất nhà Lý bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Nghĩa là từ việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Việc chọn phương thức di chuyển cũng đã được tính đến. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: Nhà Lý dời đô bằng đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.
Từ thời vua Lê Đại Hành đã phát triển đội thuyền. Khi tiếp sứ thần nhà Tống nhà vua đã sai bày thuỷ quân và chiến cụ để khoe sự mạnh giàu. Năm Thái Bình thứ 7 (976) đã có việc buôn bán với nước ngoài bằng thuyền. Như vậy nhà Lý dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi theo. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (Hoa Lư), cách kinh đô cũ không xa, nơi có đền vua Đinh vua Lê. Đây là hồ nước lớn, núi Ghềnh Tháp bao bọc kín đáo, dùng làm nơi luyện thuỷ quân rất tốt. Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu. Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La. Khi vua Lý Thái Tổ vừa bước lên bờ thì trời rạng ánh rồng vàng nên Người đã thốt lên: Thăng Long! Thăng Long! Rồng vàng bay lên báo hiệu điềm lành cho đất nước sang trang sử mới.
Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển. Đến thời Trần, vua Trần Dụ Tông đã phải hi sinh nữ phi cho thần biển để cầu sóng yên khi đi đánh Chiêm Thành. Đi bằng đường sông đức vua còn có dịp ngắm nhìn giang sơn gấm vóc thanh bình của mình. Và chính vì đi bằng đường thuỷ mà thành Đại La đã được đổi tên là Thăng Long. Đến nay Thăng Long - Hà Nội đã sắp tròn nghìn năm tuổi mà vẫn đang càng ngày càng phát triển nhanh chóng xứng với tầm vóc trung tâm đất nước và thành phố vì hoà bình của nhân loại. Những nhận định làm cơ sở để dời đô của vua Lý Thái Tổ vẫn ngày càng khẳng định tính đúng đắn trong chiến lược dời đô của Người là lập kế lâu dài cho con cháu, cho thiên hạ.
Nguồn tin: Theo Báo Bắc Ninh
Xem ra việc tập trung các công sở (hợp nhất) của Hà Nội về một chỗ sau khi mở rộng Thủ đô còn chậm hơn các cụ ta xưa.
macbupda:
Trích dẫn từ: menthuong trong 26 Tháng Mười Một, 2009, 12:00:56 pm
Trích dẫn từ: caytrevietnam trong 24 Tháng Mười Một, 2009, 12:19:55 am
Ngoài các lý do dời đô được viết trong chiếu thì có lẽ 1 lý do khác là muốn tránh xa đất Hoa Lư nơi còn nhiều tình cảm của dân chúng với nhà Lê
Hì, em không ủng hộ lí do này lắm. Vua Đinh là người quê gốc ở Hoa Lư, nếu ngại chuyện dân chúng cảm tình với vua cũ thì có lẽ các vua triều tiền Lê đã rời đô sớm hơn. Lê Long Đĩnh lại là ông vua có nhiều "tai tiếng", nên sự ủng hộ trong dân chúng với nhà Tiền Lê chắc chắn có sự giảm sút. So sánh trường hợp nhà Đinh mất ngôi, vua Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Đinh Toàn còn nhỏ nối ngôi, chưa có lỗi lầm gì, Lê Hoàn lên ngôi là do yêu cầu về người lãnh đạo kháng chiến chống Tống, thì rõ ràng trường hợp vua Đinh mất ngôi dễ gây "thương cảm" trong nhân dân ở Hoa Lư hơn.
Theo em, việc Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long, một là gần đất Cổ Pháp quê nhà, hai là để tiện khống chế toàn cục đất nước. Hoa Lư hiểm trở, dễ phòng thủ, nhưng cũng vì thế mà cách biệt với các vùng khác của đất nước, tạo điều kiện cho các thế lực địa phương âm mưu cát cứ, thời Lê Long Đĩnh cũng đã phải đi đánh dẹp khá nhiều. Từ thời Lý, với nhiều biện pháp, trong đó có vị thế trung tâm đất nước của kinh đô Thăng Long, thì nước ta đã bắt đầu xây dựng được một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền mạnh mẽ, vững chắc.
menthuong:
Từ Thăng Long đến Hà Nội
1. Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh-kinh đô Đại Việt:
Nhà Lý (1009 - 1225), chia cả nước ra thành 24 Lộ, (ngoài ra còn có Phủ, Châu) dưới trung ương. Khi đó vùng Đại La, chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.
Nhà Trần (1225 - 1400) chia các đơn vị hành chính dưới trung ương là: 9 Lộ, 4 Phủ, 7 Trấn. Đơn vị hành chính dưới Lộ, Phủ, Trấn: là Châu, dưới Châu là Huyện. Kinh thành vẫn đặt và giữ tên gọi Thăng Long. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi.
Nhà Hồ (1400 - 1407) Kinh đô chuyển vào Thanh Hoá mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan (1407-1428), với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được ví là "cửa quan phía đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa.
Cuối cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428) Thái Tổ nhà Hậu Lê chia cả nước ban đầu thành 4 đạo, đến năm 1428 chia thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (tương ứng với Bắc Bộ ngày nay) và Hải Tây (từ Thanh Hóa vào đến Thuận Hóa). Dưới đạo là trấn, lộ, huyện, châu và cấp cơ sở là xã. Năm 1430, kinh đô được đổi tên thành Đông Kinh, để phân biệt với Tây Đô ở Thanh Hoá. Năm 1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đổi trấn thành châu, đổi lộ thành phủ và gọi kinh đô là phủ Trung Đô, năm 1469 đổi thành phủ Phụng Thiên.
Thời Lê Trung Hưng (1533-1789): xứ Đàng ngoài dưới quyền Chúa Trịnh (1545-1787) có 12 trấn và 5 phiên trấn. Trung Đô, là kinh đô của Triều Đình.
2. Bắc Thành, thủ phủ xứ Bắc Hà:
Sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789), nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Huế, Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành.
Vua Gia Long của triều Nguyễn (1802-1945) lên ngôi 1802 chia cả nước thành 23 trấn, 4 doanh (dinh), đặt kinh đô ở Phú Xuân., đổi phủ Phụng Thiên (vốn là đất đai kinh thành Thǎng Long cũ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là đơn vị ngang với trấn, tức trực thuộc Trung ương mà đại diện là Tổng trấn ở Bắc Thành. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới. Từ đây Thắng Long chấm dứt vai trò là kinh đô của nhà nước phong kiến Việt Nam. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành nhưng vì tên Thǎng Long đã có từ lâu đời quen dùng trong nhân dân, nên Gia Long không tiện bỏ đi ngay mà đổi chữ "Long" (龍) là "Rồng" thành chữ "Long" (隆) là "thịnh vượng".
3. Danh xưng Hà Nội, kinh thành làm chức năng tỉnh lị:
Từ năm 1831-1832, vua Minh Mạng chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên, trực tiếp dưới cấp trung ương (triều đình). Dưới tỉnh là phủ, huyện. Bắc Kỳ gồm 13 tỉnh (Bắc Kỳ thập tam tỉnh,), trong đó có Hà Nội (đứng đầu là Tổng đốc).
Hà Nội khi đó gồm thành Thăng Long, huyện Từ Liêm của trấn Sơn Tây và ba phủ Ứng Hòa (gồm 4 huyện Sơn Minh (nay là ứng Hoà), Hoài An (nay là phía nam ứng Hoà và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ), Thanh Oai), Thường Tín (gồm Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên), Lý Nhân (gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân và Kim Bảng), Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục) của trấn Sơn Nam. Thăng Long hạ xuống thành tỉnh lỵ Hà Nội. Riêng khu vực kinh thành Thăng Long cũ gồm 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận (tên mới của Quảng Đức) cùng huyện Từ Liêm lập thành phủ Hoài Đức.
Như vậy tỉnh mới này nằm trong 3 con sông Hông, sông Nhuệ và sông Đáy nên mang danh Hà Nội, có nghĩa là phía trong sông.
Cũng có người kể rằng, chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử (Thiên Lương Huệ Vương): "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội" (Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc Hà Đông về Hà Nội). Nhưng đó là trường hợp nǎm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, "tiểu ban đặt tên" mới lấy câu sách Mạnh Tử nói trên để đổi tỉnh Cầu Đơ ra tỉnh Hà Đông.
4. Thủ phủ của Bắc Kỳ và Đông Dương dưới thời thuộc Pháp:
Năm 1886, sau khi chiếm hoàn toàn Bắc kỳ, Pháp thành lập mới các tỉnh trên cơ sở tách các tỉnh cũ và chia các Đạo quan binh ra. Sau khi Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp thành Hà Nội. Ngày 26 tháng 12 năm 1896 tỉnh Hà Nội (phần còn lại) đến ngày 3 tháng 5 năm 1902 thì đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ chuyển tỉnh lỵ về Cầu Đơ (nay là quận Hà Đông). Đến 1890 phủ Lý Nhân của Hà Nội tách ra lập tỉnh Hà Nam.
Ngày 17 tháng 10 năm 1887 Chính phủ Cộng hoà Pháp có Sắc lệnh lập Liên bang Đông Dương (Union Indochinoise,東洋聯邦), đôi khi gọi là Đông Dương thuộc Pháp (Indochine française) hoặc Đông Pháp, là thuộc địa dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp nằm ở khu vực Đông Nam Á. Khi đó Khi đó Tonkin (Bắc kỳ): từ Ninh Bình ra bắc là xứ bảo hộ bởi Pháp (protectorat) do Thống sứ (Résident supérieur) đứng đầu đóng ở Hà Nội. Hà Nội là nhượng địa và cũng là thủ phủ đóng đô của Toàn quyền (Gouverneur Général de l'Indochine française từ 1887 đến 1945) hay Cao ủy (từ 1945 đến 1954).
5. Hà Nội, thủ đô của chính thể mới:
Sau khi giành chính quyền, theo Hiến pháp năm 1946: Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã . Do đó, vào thời kỳ này các đơn vị hành chính của Việt Nam được phân thành 4 cấp, ngoài các cấp xã, huyện, tỉnh như sau này vẫn còn thì còn có cấp Bộ. Cả nước có 3 Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và chia thành 65 tỉnh, riêng Bắc Bộ có 27 tỉnh, trong đó có Hà Nội và là thủ đô của Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Sau hiệp định Giơ ne vơ, theo Hiến pháp năm 1959, Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Theo đó, miền Bắc Việt Nam năm 1954 có 30 tỉnh, 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng), 1 đặc khu (Hòn Gai) và khu vực Vĩnh Linh. Trong số các tỉnh, có tỉnh Hà Nội là thủ đô.
Sau khi thống nhất đất nước, theo Hiến pháp năm 1980, Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Theo đó, cả nước có 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh (35 tỉnh và 3 thành phố): Bắc Bộ có 13 tỉnh và 2 thành phố, Trung Bộ có 10 tỉnh, Nam Bộ có 12 tỉnh và 1 thành phố. Trong số đó Hà Nội là thủ đô và là thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau những lần thay đổi hành chính, điều chỉnh địa giới, đến năm 2008, hợp nhất toàn bộ tỉnh Hà Tây, chuyển toàn bộ huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về thành phố Hà Nội.
6. Hà Nội hào hoa:
Ngoài những tên gọi chính thức được ghi chép trong chính sử kể trân (Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Hà Nội), còn có những tên "không chính quy" nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong trong vǎn thơ, ca dao, khẩu ngữ..., như: Trường An (Tràng An), Phượng Thành (Phụng Thành), Long Biên, Long Thành, Hà Thàn, Hoàng Diệu, Kẻ Chợ, Thượng Kinh, Kinh Kỳ.
Nay có người muốn lấy lại tên Thăng Long, nên chăng?
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i; http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/0010/ban_co_biet/bai_1.htm; http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/0010/ban_co_biet/bai_2.htm;
Đất nước Việt Nam qua các đời…
|