Người bảo là "Không ! Làm gì có", người lại bảo "chắc là có". Câu trả lời còn đang bỏ ngỏ.
Tỉnh Hà Nội thành lập năm Minh Mạng thứ 12 (1831), gồm 12 huyện trong đó có hai huyện: Thọ Xương và Vĩnh Thuận, xưa là huyện Quảng Đức, thuộc phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên (thuộc đất Kinh Thành Thăng Long thời Lê). 36 phố phường Hà Nội đều nằm trong khuôn viên hai huyện này.
Đến ngày 1-10-1888, Đồng Khánh ký nhượng đất hai huyện trên cho thuộc quyền sở hữu của người Pháp thì tỉnh Hà Nội chấm dứt. Sau đó ít lâu, năm huyện tách ra lập thành tỉnh Hà Nam, tám huyện lập thành tỉnh Hà Đông. Ngày 1-10-1888 là thời hạn cuối cùng cho việc tìm 36 phố phường Hà Nội xưa, khi còn thuộc tỉnh Hà Nội.
36 phường Hà Nội
Sách "Hoàng Việt dư địa chí" khắc song in vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833) có đoạn viết về 36 phố phường Hà Nội như sau:
"Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường.
Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường."
Sách không liệt kê tiếp 36 phường mà chuyển sang chép tên các di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam thắng cảnh và chú thích được tên phường của 13 di tích, thắng cảnh đóng trên các phường đó.
Tên các phường còn thiếu tất phải dựa vào các Dư địa chí được biên soạn vào đời Gia Long:
- Sách "Các tổng, trấn, xã danh bị lãm". (1)
- Sách "Tìm về cội nguồn" tập 1 của Phan Huy Lê (phần địa bạ, các phường năm Gia Long 4-1805). (2)
Kết quả như sau:
Danh sách 36 phường:
Tên các phường thuộc huyện Thọ Xương: 1. Yên Thọ 2. Hà Khẩu 3. Đông Tác 4. Đông Hà 5. Báo Thiên 6. Đồng Xuân 7. Cổ Vũ (ghi trong sách Hoàng Việt dư địa chí) 8. Đồng Lạc 9. Khúc Phố 10. Thái Cực 11. Đông Các 12. Diên Hưng 13. Phúc Lâm 14. Phục Cổ 15. Kim Hoa 16. Hồng Mai 17. Xã Đàn ( ghi trong sách: Các tổng trấn, xã danh bị lãm) 18. An Xá (ghi trong sách: Tìm về cội nguồn).
Tên các phường thuộc huyện Vĩnh Thuận:
1. Thịnh Quang 2. Yên Thái 3. Yên Hoa 4. Quảng Bá 5. Thuỵ Chương 6. Bích Câu (ghi trong sách: Hoàng Việt dư địa chí) 7. Hoè Nhai 8. Thạch Khối 9. Nghi Tàm 10. Tây Hồ 11. Nhật Chiêu 12. Hồ Khẩu 13. Bái Ấn 14. Trích Sài 15. Võng Thị 16. Quan Trạm 17. Công Bộ (ghi trong sách: Các Tổng trấn, xã danh bị lãm) 18. Yên Lãng (ghi trong sách: Tìm về cội nguồn).
36 phố Hà Nội
Triều Tự Đức ( 1848-1883): Hà Nội có 31 phố.
- Sách "Đại Nam Nhất thống chí" do quốc sử quán triều Tự Đức soạn khoảng từ 1864-1875 (3) có 21 phố.
- Sách "Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ầt Hợi-1876" của Trương Vĩnh Ký (4) có 1 phố.
- Sách "Đồng Khánh dư địa chí" (1886-1887) (5) có 0 phố.
- Bản đồ Hà Nội do quân Pháp vẽ 2-8-1893 (6) có 6 phố.
- Sách Hà Nội thời kỳ 1873- 1888 triều Đồng Khánh (7) có 3 phố.
- Sách "Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20" của Nguyễn Văn Uẩn (8) có 5 phố.
Tổng số là 36 phố.
Số lượng phố ở Hà Nội luôn biến động không ngừng; nếu tính theo thứ tự thời gian đến một thời điểm: Ngày, tháng, năm nào đó thì số phố là 36, trước hay sau thời điểm thì số phố đã khác rồi.
Tên các phố trong 36 phố phụ thuộc vào nguồn thông tin thu thập được, nếu nguồn thông tin thay đổi thì tên phố sẽ thay đổi theo, thậm chí có khi số lượng phố cũng thay đổi theo.
Nay dựa vào các tư liệu đã thu thập được lập nên: Ba mươi sáu phố cổ Hà Nội (1864-1888)
Dưới triều Tự Đức có 31 phố.
1. Hà Khẩu: Hàng Buồm (thuộc tổng Tả Túc) 2. Việt Đông: Hàng Ngang (Hữu Túc) 3. Hàng Mã ( Hậu Túc) 4. Hàng Mắm (Tả Túc) 5. Báo Thiên: Hàng Trống (Tiền Túc) 6. Nam Hoa: Hàng Bè (Hữu Túc) 7. Hàng Bồ (Tiền Túc) 8. Vàng Bạc: Hàng Bạc (Hữu Túc) 9. Hàng Giầy (Hữu Túc) 10. Mã Mây (Hữu Túc) 11. Đồng Lạc: bán y phục phụ nữ (Tiền Túc ) 12. Thái Cựu: nhuộm mầu đỏ (Tiền Túc) (Pháp gọi chung hai phố 11+12 là Hàng Đào) 13. Đông Hà (bán chiếu): Hàng Chiếu (Hậu Túc) 14. Phúc Kiến: Lãn Ông (Hậu Túc) 15. Phường Phục Cổ: Hàng Thiếc (Tiền Túc) 16. Hàng Lam: Thợ Nhuộm (Tiền Nghiêm) 17. Đồng Xuân (Hậu Túc) 18. Thanh Hà (Hậu Túc) 19. Hàng Gai (Tiền Túc) 20. Hàng Đãy: Nguyễn Thái Học (Tiền Nghiêm) 21. Hàng Chè 22. Hàng Muối 23. Hàng Đường 24. Hàng Hòm 25. Hàng Mành 26. Hàng Khảm 27. Hàng Da 28. Lò Sũ 29. Ngõ Gạch 30. Hàng Đồng 31. Hàng Nón. Triều Đồng Khánh: có năm phố. 32. Hàng Vải 33. Hàng Lược 34. Hàng Bông 35. Hàng Gà 36. Hàng Cót.
Chú thích về các tên phố Hà Nội
Số 2: phố Việt Đông: Việt Đông là tên gọi khác của tỉnh Quảng Đông. Xưa là phường Đường Nhân sau là Diên Hưng, hay là phố Hàng Ngang. Pháp gọi phố Hàng Ngang là phố Quảng Đông.
Số 5: Phố Báo Thiên: phố này có niên đại từ 1864-1875. Đến 1883 quân đội Pháp vẽ lại bản đồ Hà Nội vào ngày 20-8, trên bản đồ có tên Thợ Thêu, tức phố Hàng Trống và phố Nhà Chung. Như vậy phố Nhà Chung mới có từ năm 1883, do đó Tả Túc ta có thể tin chắc phố Báo Thiên là phố Hàng Trống.
Số 8: Phố Vàng Bạc; sách Đại Nam nhất thống chí chú thích là xưa thuộc phường Đông Các mà phố Hàng Bạc đóng trên đất phường này nên phố Vàng Bạc nay là phố Hàng Bạc.
Số 13: phố Đông Hà bán chiếu nằm trên đất thôn Thanh Hà, tổng Hậu Túc, còn phường Đông Hà tổng Tiền Túc mới thuộc phố Hàng Gai. Nên có thể xác định phố Đông Hà là phố Hàng Chiếu.
Số 14: Phố Phúc Kiến: sách Đại Nam nhất thống chí thì ngày xưa phố này chuyên bán đồ đồng vì người Tàu đem đồng ở mỏ Tụ Long về bán ở phố này, còn tên gọi Phúc Kiến là do Hoa kiều ở Phúc Kiến được phép cư trú tại đây. Từ năm 1947 phố này là phố Lãn Ông chuyên bán thuốc bắc.
Số 19: Phường Phục Cổ: vì sao không gọi là phố Phục Cổ, nguyên là do phố Hàng Gai, chữ Hán gọi là phố Phục Cổ rồi, phường Phục Cổ khá rộng, đình phục cổ ở phố Nguyễn Du (tổng Tiền Nghiêm), song ở tổng Tả Túc cũng là đất phường Phục Cổ. Phố Hàng Gai ở tổng Tiền Túc được gọi là phố Phục Cổ chắc là cũng có duyên cớ. Nay phố Hàng Thiếc ở thôn Yên Nội, tổng Tiền Túc có thể là đất phường Phục Cổ, cho nên sách Đại Nam nhất thống chí mới chữa là phường Phục Cổ đúc đồ thiếc để bán.
Số 16: Phố Hàng Lam: chữ Hán gọi là phố Yên Trung. Trong Bản đồ Tự Đức thôn Yên Trung nằm ở góc đông nam thành Hà Nội (1805) tức là nằm ở đầu phía Bắc phố Thợ Nhuộm. Bản đồ Hà Nội năm 1883 đã thấy ghi tên phố Thợ Nhuộm, chỉ có tên phố Hàng Gai chưa có tên phố Hàng Bông. Từ đó có thể xác định phố Hàng Lam là phố Thợ Nhuộm, không phải là phố Hàng Bông Lờ.
Số 21: Phố Hàng Chè ở đầu phía Bắc phố Đinh Tiên Hoàng đến đền Bà Kiệu, ngày nay phố này nằm chung trong phố Đinh Tiên Hoàng, không còn tên riêng của một phố độc lập nữa.
Số 26: phố Hàng Khảm: Sách Hà Nội 1873-1888 (trang 121-122) thì nghề khảm du nhập vào Bắc Kỳ từ 1820, cho đến năm 1873 thì chất lượng mặt hàng này đã rất tinh tế và phát đạt.
Phố Hàng Khảm chạy từ Đồn Thủy tới lũy bán nguyệt Đông Nam của Thành Hà Nội (quãng Cửa Nam) có chiều dài bằng phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền + Hàng Khay và phố Tràng Thi). Vì phố rất dài nên nằm trải dài trên bốn tổng: Tiền Túc, Tả Túc, Tả Nghiêm, Tiền Nghiêm.
Số 18: Phố Lò Sũ. Theo tên trên bản đồ Hà Nội 1883 là Ru de Merussiers (không hiểu là phố gì) nhưng nó nằm đúng vị trí phố Lò Sũ ngày nay nên ghi là phố Lò Sũ.
Số 29: Phố Ngõ Gạch. Theo sách Hà Nội 1873-1888 (trang 110-111): Ngày 2-5-1873 Jean Dupuis bố trí cho cận vệ ở phố Than-Ha (?), ngày nay là phố Hàng Chiếu. Ngôi nhà này nằm ở đầu "một ngõ thông với một phố song song với phố của chúng tôi (tức phố Hàng Chiếu) và bị chúng tôi đóng lại vào ban đêm để tránh mọi bất ngờ". Như vậy chỉ có thể là phố Ngõ Gạch vì nó song song với phố Hàng Chiếu và phố Hàng Buồm. Còn phố Nguyễn Siêu thì tới 1936 mới có tên trên bản đồ, mặc dù cụ đã ngồi dạy học ở đó từ lâu.
Đôi lời nhận xét
1. 36 phường Hà Nội thì chia đều ra hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, mỗi huyện 18 phường; còn 36 phố thì đều ở huyện Thọ Xương và hầu hết đều ở đất thuộc bốn tổng: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Túc, chỉ có vài phố ở các tổng Nghiêm, 35/36 phố thuộc đất quận Hoàn Kiếm bây giờ ngày nay.
2. Trên các phố dân gian đặt ra như: Hàng Bồ, Mã Mây, Lò Sũ... đến năm 2003 đã trải qua hơn 100 năm vẫn giữ nguyên tên cũ; còn các tên chữ Hán như Hà Khẩu, Nam Hoa... và bằng Tiếng Pháp thì hầu như dân chúng quên rồi.
3. Các sử liệu, tư liệu chính, mỗi sách hay tư liệu chỉ ghi được khoảng trên 20 phố, gộp chung lại mới được 31 phố thời Tự Đức. Có lẽ thời kỳ này số lượng phố Hà Nội chưa nhiều. Song thời Đồng Khánh chỉ ghi lại được tên 5 phố; có thể do ghi chép thiếu sót chưa phản ánh đúng thực trạng chăng? Sang thời Pháp quản lý, chỉ khoảng đến năm 1890 đã kê được tên trên 70 phố.
-------------------
(1): Sách này biên soạn vào 1810-1812 thời Gia Long. Dương Thị Thoa-Phạm The dịch và biên soạn - NXB Khoa học xã hội. Tr 95-96-97-98.
(2): Sách này do NXB Thế giới - Hà Nội - 1988. Tr 250 và 254.
(3): Sách "Đại Nam nhất thống chí" (tập 3). Tr 198-199 - NXB Thuận Hóa.
(4): Sách "Chuyến đi Bắc Kỳ 1876" của Trương Vĩnh Ký in trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 11-1998.
(5): Sách "Đồng Khánh dư địa chí" - NXB Thế Giới-2003.
(6): Bản đồ Hà Nội 1883: chép tên phố từ số 23-28.
(7): Sách "Hà Nội giai đoạn 1873-1888" André Masson-NXB Hải Phòng-2003.
(8): Sách "Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20" (tập 2). Tr13-14 NXB Hà Nội-1995.
Vũ Hoàng
|